• Slideshow Chạy chính 1
  • Slideshow Chạy chính 2
  • Slideshow Chạy chính 3
  • Slideshow Chạy chính 4
  • Slideshow Chạy chính 5
  • Slideshow Chạy chính 6
  • Slideshow Chạy chính 7
Tuyên truyền phổ biến pháp luật

CHUYÊN ĐỀ NĂM 2023 “HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH"

25/04/2023 130628 Đã xem

TỈNH ỦY BÌNH THUẬN

BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY

* Bình Thuận, ngày 31 tháng 3 năm 2023

 

CHUYÊN ĐỀ NĂM 2023

“HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA, SỨC MẠNH CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỀ TỔ QUỐC”

-----

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận thiên tài của cách mạng Việt Nam. Toàn bộ di sản tư tưởng của Người là một kho báu văn hóa của dân tộc, hàm chứa nhiều lĩnh vực rộng lớn và phong phú, đặc sắc và sáng tạo, rất trí tuệ và đậm chất nhân văn. Trong đó, tư tưởng về văn hóa, con người chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng.

I. TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA

Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa là một hệ thống các quan điểm lý luận mang tính khoa học và cách mạng về văn hóa và xây dựng nền văn hóa Việt Nam. Tư tưởng đó chắt lọc, tổng hợp và kết tinh những giá trị văn hóa của phương Đông và phương Tây, truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, mà cốt lõi là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với tinh hoa và bản sắc dân tộc Việt Nam.

1. Quan niệm về văn hóa

Thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tinh hoa văn hóa thế giới và các giá trị văn hóa dân tộc, tắm mình trong hoạt động thực tiễn phong phú của Nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ ý nghĩa lớn lao và vị trí đặc biệt quan trọng của văn hóa. Tháng 9/1943, khi còn ở trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, Người viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”([1]).

Khái niệm văn hóa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra đã khái quát nội dung rộng nhất của phạm trù văn hóa, bao hàm các hoạt động vật chất và tinh thần của con người cùng với các giá trị mà con người sáng tạo ra nhằm đáp ứng lẽ sinh tồn, đồng thời cũng là mục đích sống của loài người, là nguồn gốc, động lực sâu xa của văn hóa. Điểm đặc sắc và độc đáo trong định nghĩa này là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh đến một vấn đề rất quan trọng: Phương thức sử dụng các kết quả của sự sáng tạo. Đây chính là thước đo trình độ văn hóa của con người. Nếu phương thức sử dụng đúng, nó sẽ nhân đạo hóa đời sống xã hội.

Cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phát triển, nâng tầm văn hóa Việt Nam còn thể hiện trong việc đưa ra 05 định hướng lớn để xây dựng nền văn hóa dân tộc:

“1. Xây dựng tâm lý: Tinh thần độc lập tự cường.

2. Xây dựng luân lý: Biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.

3. Xây dựng xã hội: Mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội.

4. Xây dựng chính trị: Dân quyền.

5. Xây dựng kinh tế”([2]).

2. Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự phát triển

Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công. Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên 06 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trong đó có 02 nhiệm vụ cấp bách thuộc về văn hóa: Một là, cùng với diệt giặc đói phải diệt giặc dốt. Hai là, phải giáo dục tinh thần cho Nhân dân. Người khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Trong bộn bề công việc của Nhà nước chống lại giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất khai mạc ngày 24/11/1946 tại Nhà hát Lớn thành phố Hà Nội. Trong diễn văn khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nền văn hóa mới của nước nhà lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở”; “Văn hóa liên lạc mật thiết với chính trị”; “Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân”; “Văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do”; “Phải làm thế nào cho mỗi người dân Việt Nam, từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hạnh phúc của mình nên được hưởng”; “Số phận dân ta là ở trong tay dân ta”. Người nêu một chân lý “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”“Phải đem văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ”. Người nhấn mạnh: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”([3]).

Trên cơ sở phân tích mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và cơ sở hạ tầng, văn hóa với kinh tế, chính trị, xã hội. Người nói: Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng; những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và đủ điều kiện phát triển; có thực mới vực được đạo; xã hội thế nào văn hóa thế ấy. Nhưng mặt khác, đến lượt mình, văn hóa là động lực của sự phát triển xã hội, phát triển kinh tế.

Văn hóa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập ở đây là văn hóa theo nghĩa rộng. Đó là sự hiểu biết và trí tuệ của con người và do con người tích lũy được, cùng tâm hồn cao thượng, đạo lý tốt đẹp trong mối quan hệ của con người với đồng loại, với xã hội và tự nhiên, được xây dựng, bồi đắp nên trong suốt chiều dài lịch sử; nó làm nên một nền tảng tinh thần của một xã hội, giữ một vai trò cực kỳ quan trọng, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.

Theo quan điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa là mục tiêu - nhìn một cách tổng quát - là quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc; là khát vọng của Nhân dân về các giá trị chân, thiện, mỹ. Đó là một xã hội dân là chủ và dân làm chủ, công bằng, văn minh, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành; một xã hội mà đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân luôn được quan tâm và không ngừng nâng cao, con người có điều kiện phát triển toàn diện.

Di sản Hồ Chí Minh cho ta một nhìn nhận về động lực phát triển đất nước, bao gồm động lực vật chất và động lực tinh thần; động lực cộng đồng và cá nhân; nội lực và ngoại lực. Tất cả quy tụ ở con người và đều có thể xem xét dưới góc độ văn hóa. Tức là sự trau dồi nhân cách, tu dưỡng bản thân theo đúng nghĩa gốc của từ culture mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đến với nghĩa “trồng người”. Trau dồi nhân cách có nghĩa là mang trong lòng một ham muốn, ham muốn tột bậc vì sự độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Ham muốn đó tạo nên ở con người một sức lôi cuốn mạnh mẽ phá vỡ mọi giới hạn, lật đổ mọi quyền lực, đánh bại mọi kẻ thù. Tuy nhiên, nếu tiếp cận các lĩnh vực văn hóa cụ thể trong tư tưởng Hồ Chí Minh, động lực có thể nhận thức ở các phương diện sau:

Văn hóa chính trị: Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong chính trị, là một trong những động lực có ý nghĩa soi đường cho quốc dân đi, lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ.

Văn hóa kinh tế: Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải đứng trong kinh tế, nghĩa là văn hóa không hoàn toàn phụ thuộc vào kinh tế, mà có vai trò tác động tích cực trở lại kinh tế.

Văn hóa xã hội: Giải phóng về chính trị thì văn hóa mới có điều kiện phát triển. Xã hội thế nào văn hóa thế ấy. Phải làm cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, đưa Đảng Cộng sản Việt Nam lên địa vị cầm quyền, thì mới giải phóng được văn hóa.

Văn hóa văn nghệ: Góp phần nâng cao lòng yêu nước, lý tưởng, tình cảm cách mạng, sự lạc quan, ý chí, quyết tâm và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng.

Văn hóa giáo dục: Giúp con người hiểu biết quy luật phát triển của xã hội, đào tạo con người mới, cán bộ mới.

Văn hóa đạo đức, lối sống: Nâng cao phẩm giá, phong cách lành mạnh cho con người, hướng con người vươn tới các giá trị “chân, thiện, mỹ”.

Văn hóa pháp luật: Đảm bảo dân chủ, trật tự, kỷ cương, phép nước.

Với tư cách là mục tiêu, động lực của sự phát triển, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra nhiệm vụ của văn hóa: “Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa được tham nhũng, được lười biếng, phù hoa, xa xỉ... văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do... làm thế nào cho quốc dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng mình”([4]).

3. Văn hóa góp phần khẳng định bản sắc dân tộc gắn liền với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại

Trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức được vai trò quan trọng của văn hóa đối với công cuộc xây dựng và kiến thiết nước nhà. Người chỉ rõ: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Vì vậy, ngay trong lúc bộn bề của những công việc cấp bách trong những ngày đầu thành lập nước, Người vẫn chú trọng xây dựng một nền văn hóa mới, có nội dung cách mạng, vì hạnh phúc của Nhân dân.

Trước hết, nền văn hóa mới mà Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng là nền văn hóa có tính chất dân tộc. Đó là nền văn hóa gắn liền với dân tộc, có gốc rễ từ dân tộc, mang tâm hồn dân tộc và là diện mạo của dân tộc. Hay nói cách khác, bản sắc dân tộc thể hiện ở nền văn hóa dân tộc. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được hun đúc nên qua hàng ngàn năm lịch sử. Đó là lòng yêu nước, thương nòi; tinh thần độc lập, tự cường, tự tôn dân tộc; tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình, làng xã, Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; dũng cảm, thông minh trong chiến đấu; sự tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống; tình nghĩa thuỷ chung với người thân, bạn bè... Về hình thức, bản sắc văn hóa dân tộc biểu hiện ở ngôn ngữ, phong tục, tập quán, lễ hội, truyền thống, cách cảm nhận và suy nghĩ...

Bản sắc văn hóa dân tộc chứa đựng giá trị to lớn và có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nó phản ánh những nét độc đáo, đặc tính của dân tộc; là ngọn nguồn đi tới chủ nghĩa Mác - Lênin. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, âm nhạc dân tộc ta rất độc đáo. Bác đã đi nhiều nơi trên thế giới, nhưng Bác vẫn nhớ những câu hát của dân ta. Ta có nhiều câu hát dân ta hay lắm. Bây giờ phải khai thác và phát triển nó lên. Người nhấn mạnh: “Những người cộng sản rất quý trọng cổ điển. Có nhiều dòng suối tiến bộ chảy từ ngọn nguồn cổ điển đó. Càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, càng phải coi trọng truyền thống tốt đẹp của cha ông”([5]).

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiếp biến văn hóa là một quy luật “văn hóa Việt Nam ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa Đông phương và Tây phương chung đúc lại... Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt ta học lấy để tạo ra nền văn hóa Việt Nam”([6]). Vì vậy, cùng với bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, Người luôn chú trọng chắt lọc tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho văn hóa Việt Nam, xây dựng văn hóa Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ. Trao đổi với một nhà báo Liên Xô, Người nhấn mạnh: “Các bạn chớ hiểu là tôi cho rằng chúng tôi cần dứt bỏ văn hóa nào đó, dù là văn hóa Pháp đi nữa. Ngược lại, tôi muốn nói điều khác. Nói đến việc mở rộng kiến thức của mình về văn hóa thế giới, mà đặc biệt hiện nay là văn hóa xôviết - chúng tôi thiếu - nhưng đồng thời tránh nguy cơ trở thành kẻ bắt chước... Văn hóa của các dân tộc khác cần phải được nghiên cứu toàn diện, chỉ có trong trường hợp đó mới có thể được nhiều hơn cho văn hóa của chính mình”([7]).

Tính dân tộc và tính nhân loại trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới tác động vào nhau một cách biện chứng. Theo Người, tính dân tộc càng sâu sắc, hoàn hảo bao nhiêu, càng có lợi cho tiếp nhận văn hóa nhân loại bấy nhiêu. Ngược lại, những cái mới, cái tiến bộ của văn hóa nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa Mác - Lênin, sẽ giúp chúng ta có quan điểm dân tộc đúng đắn và khai thác đúng hướng chiều sâu di sản văn hóa dân tộc, làm cho văn hóa dân tộc ngày càng phong phú.

 Nghị quyết của UNESCO vinh danh Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Những đóng góp quan trọng và nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật chính là sự kết tinh của truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam, và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc mong muốn được khẳng định bản sắc văn hóa của mình và mong muốn tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc([8]).

4. Văn hóa là một mặt trận, người hoạt động văn hóa là chiến sĩ trên mặt trận ấy

Đây là một luận đề văn hóa Việt Nam độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trước hết, cần nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò độc lập của văn hóa với tư cách là một mặt trận như các mặt trận chính trị, kinh tế, quân sự. Nhưng mặt khác phải thấy quan hệ và sự tác động lẫn nhau giữa các “mặt trận”. Mối quan hệ giữa văn hóa, văn nghệ với kinh tế và chính trị được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”([9]). Ý nghĩa và bản chất của mặt trận văn hóa và chiến sĩ văn hóa chính là ở chỗ đó. Nghĩa là, cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự Nhân dân, trước hết là công, nông, binh.

Nhân Triển lãm hội họa (năm 1951), trong thư gửi các họa sỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Dân tộc bị áp bức, thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì phải tham gia cách mạng”. Người đánh giá cao vai trò xung kích của văn hóa, văn nghệ trong sứ mệnh giải phóng dân tộc. “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị”, cần đoàn kết tập hợp đội ngũ trí thức, những nhà văn hóa và toàn quân, toàn dân phấn đấu cho sự nghiệp “phò chính, trừ tà”, góp phần quan trọng vào việc nhân đạo hóa con người, cổ vũ con người vươn tới chân, thiện, mỹ. Văn hóa phải “gắn liền với lao động, sản xuất, văn hóa xa đời sống, xa lao động là văn hóa suông”. Văn hóa phải thấu hiểu và đi sâu vào đời sống, “bày tỏ được cái tinh thần anh dũng và kiên quyết của quân và dân ta, đồng thời để giúp phát triển và nâng cao tinh thần ấy”.

Văn hóa là một mặt trận nên có tính chất phức tạp của mặt trận, và những người làm công tác trên mặt trận đó phải có những đức tính của người chiến sĩ như lập trường đúng, tư tưởng đúng, hiểu thấu, liên hệ và đi vào đời sống của Nhân dân để bày tỏ tinh thần kiên quyết và anh dũng của quân ta, đồng thời để giúp phát triển và nâng cao tinh thần ấy. Chiến sĩ văn hóa phải là những người dũng cảm, kiên cường để chống lại những thế lực phản văn hóa. “Cây bút phục vụ chính nghĩa trong tay nhà văn chiến đấu có một lực lượng cực kỳ mạnh mẽ...”([10]).

5. Văn hóa phải phục vụ Nhân dân, quần chúng nhân dân phải được hưởng thụ các giá trị văn hóa

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa phải phục vụ Nhân dân, lấy hạnh phúc của Nhân dân, của dân tộc làm mục tiêu. Độc lập, tự do phải đi đến ấm no, hạnh phúc và sự phát triển, tức văn hóa phải nhằm mục tiêu phục vụ và nâng cao đời sống con người. Sự phát triển của một quốc gia dân tộc quy cho cùng chính là sự phát triển kinh tế gắn liền với sự phát triển xã hội, được đo bằng hiệu quả xã hội, mà hiệu quả lớn nhất là mỗi thành viên cộng đồng có được cuộc sống đúng nghĩa, tức cuộc sống có văn hóa.

 Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Không có Nhân dân thì không có Bác. Sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp văn hóa của Người là sự nghiệp vì dân. Theo Người, suy nghĩ, hành động, sáng tác đều phải xuất phát từ cái tâm: Vì Nhân dân phục vụ. Những người làm công tác văn hóa muốn tìm thấy sự thay đổi, sự ham mê thật “phải trở về với cuộc sống thực tại của con người”, tức là nghệ thuật phải gần với cuộc sống. Năm 1946, trong khói lửa ác liệt của chiến tranh, Người đã kêu gọi: “Tôi thiết tha mong muốn cho nền văn hóa mới nước nhà lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở”([11]). Lợi ích của Nhân dân trở thành “khuôn phép” của công tác văn hóa: “Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: Dân rất tốt… Bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm… Nói chuyện, tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo… của chúng ta đều phải lấy câu này làm khuôn phép: “Từ trong quần chúng mà ra. Về sâu trong quần chúng”([12]). Điều đó có nghĩa là cuộc sống cách mạng và sự sáng tạo của quần chúng nhân dân luôn là nguồn nhựa sống, là máu, thịt của nền văn hóa mới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu văn hóa phải thấm nhuần quan điểm Nhân dân, vì Nhân dân phục vụ và phát huy sức mạnh của toàn dân làm văn hóa. Người căn dặn anh chị em làm văn nghệ phải đi sâu vào thực tế cuộc sống, hiểu được tư tưởng, tình cảm, tâm lý, yêu cầu của Nhân dân, từ đó phục vụ Nhân dân một cách tốt nhất. Người yêu cầu phải học cách nói, tiếng nói của quần chúng; “khi viết, khi nói phải làm sao cho quần chúng đều hiểu, đều tin, đều quyết tâm theo lời kêu gọi của mình”. Bao giờ cũng phải tự hỏi: “Ta viết cho ai xem? Nói cho ai nghe?”, “Nếu các bạn viết mà quần chúng hiểu, quần chúng ham đọc, quần chúng khen hay, thế là các bạn tiến bộ. Trái lại, các bạn chưa thành công”.

Để văn hóa thực sự phục vụ quần chúng nhân dân, ngoài việc đi vào quần chúng cổ động, biểu dương sự nghiệp cách mạng của Nhân dân, anh chị em văn hóa và trí thức còn phải đánh giá, nhìn nhận đúng Nhân dân. Theo Người, quần chúng là những người không phải chỉ sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội mà còn là những người sáng tác nữa. Tục ngữ, vè, ca dao... là “những hòn ngọc quý”, vừa rất hay, lại rất ngắn chứ không “trường thiên đại hải”, dây cà ra dây muống. Quần chúng còn là đối tượng phản ánh. Người khẳng định: “Chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng cho sáng tác của nhà văn bằng những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn quên điều đó - nhân dân cũng sẽ quên anh ta”([13]). Quần chúng còn là những người kiểm nghiệm sản phẩm. Vì vậy, viết xong đọc đi, sửa lại bốn, năm lần chưa đủ, mà “phải nhờ một số đồng chí công, nông, binh đọc lại. Chỗ nào ngúc ngoắc, chữ nào khó hiểu, họ nói ra cho thì phải sửa lại”([14]). Cuối cùng phải thấy rằng, đồng bào đang chờ đợi và phải được hưởng thụ các sản phẩm văn hóa.

II. TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI

 Trong cách nhìn bao quát của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa, Người đặc biệt coi trọng việc xây dựng những con người Việt Nam có văn hóa, nền văn hóa của mỗi dân tộc đó xây dựng nên. Vì vậy không thể tách rời việc xây dựng nền văn hóa với việc hình thành những con người mang bản chất, đặc tính của nền văn hóa ấy.

1. Quan niệm về con người

Theo quan điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người là một chỉnh thể thống nhất về trí lực, tâm lực, thể lực, vừa tồn tại tư cách cá nhân, vừa là thành viên của gia đình và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân hài hòa, phong phú. Trong mỗi con người đều có tính tốt và tính xấu. Người giải thích: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”. Con người có tính chất xã hội, là con người xã hội, thành viên của một cộng đồng xã hội. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho ta hiểu biết về yếu tố sinh vật của con người. Theo Người, “dân dĩ thực vi tiên”; “dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Vì vậy, mọi đường lối, chủ trương, chính sách, nhiệm vụ phải thực hiện ngay làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, có học hành. Đem lại lợi ích cho con người chính là tạo ra động lực vô cùng lớn lao cho sự nghiệp chung, vì nếu như những nhu cầu, lợi ích của mỗi cá nhân không được quan tâm thỏa đáng thì tính tích cực của họ sẽ không thể phát huy được. Trong khi phê phán một cách nghiêm khắc chủ nghĩa cá nhân, Người viết: “Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình”.

2. Xây dựng con người mới - vấn đề có ý nghĩa chiến lược

 Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất, động lực, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, từ khi ra đi tìm đường cứu nước đến lời Di chúc cuối cùng, lúc là thầy giáo, khi là nhà báo, nhà vǎn, là Chủ tịch nước... Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn coi các vấn đề của con người, các công việc của con người, sự nghiệp trồng người là mục tiêu, là mối quan tâm thường trực, là trách nhiệm vẻ vang của mình. Trong hàng ngàn bài viết và lời nói của mình, từ lá thư đầu tiên gửi cụ Phan Chu Trinh nǎm 1913, đến lời Di chúc cuối cùng, vấn đề tha thiết nhất và thống thiết nhất ở Chủ tịch Hồ Chí Minh là các vấn đề của con người. Mong muốn cháy bỏng trong suốt cuộc đời hoạt động của Người là làm sao Nhân dân ta, những người cùng khổ, trẻ em, thanh niên, phụ nữ, người già cả đều vui vẻ khoẻ mạnh, ai cũng có cơm ăn, có áo mặc, được học hành và sống trong hòa bình, tình hữu nghị, sự yêu thương, niềm hạnh phúc và đều được phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ.

Với triết lý nhân văn hành động, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề... là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người phải yêu nước thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức, “Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa”([15]).

 Trong Di chúc thiêng liêng, Người căn dặn: “Đầu tiên là vấn đề con người. Rõ ràng, đối tượng trung tâm trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới là xây dựng con người mới. Con người mới ở đây là mỗi một con người Việt Nam, là con người trong gia đình, trong xã hội, là người công dân của nước nhà, người đảng viên, người cán bộ của Đảng và Nhà nước, nói rộng ra là con người trên cả hành tinh của chúng ta. Cho nên, chiến lược con người là chiến lược số một”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi các vấn đề về con người, về giải phóng con người và về sự nghiệp trồng người là mục tiêu, là trách nhiệm vẻ vang, cao cả nhất trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Vì vậy, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, Người yêu cầu phải tích cực, chủ động xây dựng con người mới phát triển toàn diện. “Muốn có chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải xây dựng những con người xã hội chủ nghĩa”([16]). Người coi việc xây dựng con người xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược lâu dài, gian khổ, đầy chông gai nhưng cũng hết sức vẻ vang và tự hào. Người nói: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người. Chúng ta phải đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà”([17]). Trước khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn trăn trở với chiến lược trồng người: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, không phải mọi con người đều trở thành động lực mà phải là những con người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền tảng truyền thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam.

 3. Tiêu chuẩn con người mới

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người ta mới sinh ra đều tốt cả, nhưng về sau do ảnh hưởng của bố mẹ, bạn bè, xã hội mà dần dần mỗi người một khác. Đồng thời, ngay trong “mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng”([18]); mỗi xã hội đều có thước đo cái thiện, cái ác của nó. Vì lẽ đó, khi kiến tạo một xã hội mới, trước hết phải tích cực, chủ động xây dựng những con người, những nhân cách cho xã hội đó. Vì vậy: “Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi... Đối với những người có thói hư tật xấu, trừ hạng người phản bội lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời”([19]).

Con người xã hội chủ nghĩa vừa là sản phẩm sinh thành của quá trình phát triển xã hội mới, vừa là kết quả của hoạt động tích cực, chủ động của hàng triệu người trong xã hội. Con người xã hội chủ nghĩa là những con người có các phẩm chất rất mới mà xã hội cũ không có. Đó là những con người được hình thành không chỉ gắn với tiến trình cách mạng của Nhân dân ta, mà nó còn phải đại diện cho các giá trị đạo đức mới, lý tưởng xã hội mới. Đó là những con người kiên quyết chống áp bức và bóc lột; coi lao động là nguồn sống, là trách nhiệm, là vinh dự, là nguồn tạo ra hạnh phúc. Đó là những con người yêu nước sâu sắc kết hợp với yêu đồng loại, yêu những người lao động và nghèo khổ trên thế giới.

 Con người mà Chủ tịch Hồ Chí Minh hướng đến xây dựng, trước hết, là con người có lý tưởng sống cao đẹp, sống vì mọi người và có tinh thần đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng con người và xã hội loài người, đó là con người “hồng thắm”; thứ hai, là con người có đạo đức trung thực, thẳng thắn, liêm khiết, khiêm tốn, dũng cảm, đó là con người “có đức”. Để những con người “hồng thắm” và “có đức” này mang lại lợi ích cho mình và cho xã hội thì cần phải có sự hiểu biết, năng lực chuyên môn và thể hiện ở hành động, hiệu quả trong lao động cần cù sáng tạo, đó là con người “chuyên sâu” và “có tài”. Theo Người, “hồng thắm” và “chuyên sâu”, “có đức” và “có tài” phải được kết hợp chặt chẽ với nhau, quan hệ mật thiết với nhau. Người chỉ rõ: “Có tài phải có đức, có tài không có đức, tham ô hủ hóa có hại cho nhà nước. Có đức không có tài, không giúp ích gì được ai”.

Như vậy, giữa “đức” với “tài”, “hồng” với “chuyên” trong tư tưởng Hồ Chí Minh phải gắn bó, kết hợp chặt chẽ nhau, bổ trợ nhau, hòa quyện với nhau, là cơ sở, điều kiện, tiền đề của nhau, thúc đẩy lẫn nhau, làm nên sự hoàn thiện trong nhân cách con người. Những con người hồng thắm, chuyên sâu, có đức, có tài, đó là những con người biết kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Những con người như vậy không phải tự nhiên có, mà là sản phẩm của một quá trình giáo dục, đào tạo và rèn luyện lâu dài, công phu.

Nội dung xây dựng con người toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên”. Đó là những con người có mục đích và lối sống cao đẹp, có bản lĩnh chính trị vững vàng, những con người của chủ nghĩa xã hội, có tư tưởng, tác phong và đạo đức xã hội chủ nghĩa và năng lực làm chủ. Xây dựng con người toàn diện bao gồm:

- Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình”.

- Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ quốc.

- Có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng.

- Có phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương.

Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân; bồi dưỡng về năng lực trí tuệ, trình độ lý luận chính trị, văn hóa, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, sức khỏe.

Xây dựng con người phải bằng những phương pháp khoa học, cách mạng. Mỗi người tự rèn luyện, tu dưỡng ý thức, kết hợp chặt chẽ với xây dựng cơ chế, tính khoa học của bộ máy và tạo dựng nền dân chủ. Việc nêu gương, nhất là người đứng đầu, có ý nghĩa rất quan trọng. Hồ Chí Minh thường nói đến “tu thân, chính tâm” thì mới có thể “trị quốc, bình thiên hạ” (làm những việc có lợi cho nước, cho dân). Văn hóa phương Đông cho thấy “một tấm gương sống có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Hồ Chí Minh thường nhắc lại những điều ấy trong khi bàn biện pháp xây dựng con người. Người nói rằng “lấy gương người tốt, việc tốt hằng ngày để giáo dục lẫn nhau” là rất cần thiết và bổ ích. Biện pháp giáo dục có một vai trò quan trọng. Hồ Chí Minh nhắc nhở “hiền, dữ phải đâu là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên”. Theo Người, học sinh như tờ giấy trắng, vẽ xanh thì xanh, vẽ đỏ thì đỏ.

Chú trọng vai trò của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng. Thông qua các phong trào cách mạng như “Thi đua yêu nước”, “Người tốt việc tốt”. Đặc biệt phải dựa vào quần chúng theo quan điểm “dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”([20]).

4. Nhân cách văn hóa của người cán bộ, đảng viên

Xây dựng con người mới trước hết cần tạo cho họ một nền tảng văn hóa mới vững chắc, nhất là đối với người cán bộ, đảng viên. Tháng 7/1956, phát biểu tại lớp giáo viên và Hội nghị sư phạm, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Dân tộc ta, nước ta đang khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa mà “muốn khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa thì cần cán bộ rất nhiều... Vậy ta phải đào tạo cán bộ, cán bộ phải có văn hóa làm gốc”([21]).

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân cách văn hóa của người cán bộ, đảng viên và những người lãnh đạo cách mạng phải gắn bó với Nhân dân, vừa phải làm gương mẫu cho Nhân dân noi theo. Điều cốt lõi của nhân cách văn hóa của người cách mạng là “Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”([22]). Người yêu cầu đội ngũ cán bộ, đảng viên và các nhà lãnh đạo cách mạng của Đảng phải “ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối chính trị của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của Nhân dân lao động lên trên lên trước lợi ích của cá nhân mình. Hết lòng, hết sức phục vụ Nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ”([23]).

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt nhấn mạnh đến việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng như là phẩm chất cốt lõi của nhân cách văn hóa ở cán bộ, đảng viên và các nhà lãnh đạo cách mạng. Theo người, đạo đức cách mạng có thể tóm tắt là:

“Nhận rõ phải, trái, giữ vững lập trường.

 Tận trung với nước, tận hiếu với dân”([24]).

 Như vậy, nhân cách văn hóa của người cán bộ, đảng viên và cán bộ lãnh đạo cách mạng của Đảng phải được nuôi dưỡng trong nguồn sữa của Nhân dân và phải tỏa sáng trong Nhân dân. Nếu tách rời mối quan hệ giữa cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo với Nhân dân thì không thể xây dựng được nhân cách văn hóa của họ.

Để giúp cán bộ, đảng viên và cán bộ lãnh đạo hoàn thiện được nhân cách văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh đến công tác chỉnh đốn Đảng. Tổ chức Đảng có vai trò đặc biệt trong việc rèn luyện, giáo dục, xây dựng nhân cách văn hóa cho từng cán bộ, đảng viên. Người yêu cầu:

“- Chỉnh Đảng phải làm từng bước, phải có trọng tâm.

- Chỉnh huấn cán bộ trước rồi mới chỉnh đốn chi bộ.

- Chỉnh huấn tư tưởng trước rồi mới chỉnh đốn tổ chức. Chỉnh huấn cán bộ cao cấp phải do Trung ương trực tiếp lãnh đạo vì đó là mấu chốt của việc chỉnh đốn toàn Đảng”([25]).

Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình xây dựng Đảng: “Là một Đảng lãnh đạo, Đảng ta cần phải mạnh mẽ, trong sạch, kiểu mẫu”([26]). Vì vậy, sự gương mẫu của từng cán bộ, đảng viên là điều kiện hàng đầu để tạo nên sự gương mẫu của toàn Đảng.

Nhân cách văn hóa của mỗi cán bộ, đảng viên và đội ngũ cán bộ lãnh đạo cách mạng của Đảng không chỉ được thể hiện ở sự phấn đấu tận tâm, tận lực của họ vì lợi ích của Nhân dân, ở tinh thần gương mẫu đi đầu của họ mà còn thể hiện ở thái độ và hành động của họ trong việc đấu tranh chống các căn bệnh nảy sinh làm tổn hại đến lợi ích của Đảng, của Nhân dân. Đặc biệt là các bệnh tham ô, lãng phí và quan liêu. Theo Người: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân”([27]). Người chỉ rõ: “Kẻ thù khá nguy hiểm vì nó không mang gươm mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công việc của ta”([28]).

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú trọng xây dựng tiêu chuẩn nhân cách văn hóa của người cán bộ, đảng viên và người lãnh đạo cách mạng. Người thường xuyên giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên thực hiện các tiêu chuẩn sau:

1. Suốt đời kiên quyết phấn đấu cho chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.

2. Rèn luyện tư tưởng vô sản, sửa chữa tư tưởng sai lầm. Kiên quyết đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, không đứng chân trong chân ngoài.

3. Đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, trước hết. Biết đem lợi ích riêng của cá nhân phục tùng lợi ích chung của cách mạng.

4. Tuyệt đối chấp hành nghị quyết và kỷ luật của Đảng.

5. Liên hệ chặt chẽ với quần chúng.

6. Luôn luôn cố gắng học tập, thật thà tự phê bình và thành khẩn phê bình đồng chí mình. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, một người cán bộ, đảng viên có nhân cách văn hóa là người phải luôn luôn phấn đấu để hoàn thiện không ngừng. Người chỉ rõ: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”([29]) .

5. Xây dựng con người là cả “công trình” khoa học

Thực tiễn chứng minh, văn hóa, chính trị, cách mạng, đạo đức... thống nhất, hòa quyện với nhau từ chính mục đích sống và lý tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người tâm niệm: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”([30]). Đó là lý tưởng chính trị, tư tưởng đạo đức và lý tưởng nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng thời, đây cũng là cách nhìn có văn hóa của Người đối với con người. Nói cách khác, văn hóa Hồ Chí Minh chính là văn hóa gắn liền với con người, gắn liền với sự phát triển xã hội nhằm giải phóng con người.

Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng các thuật ngữ người cách mạng, người chiến sĩ, con người mới, con người xã hội chủ nghĩa trong các giai đoạn lịch sử cụ thể và cũng đã nêu ra những tiêu chuẩn cho từng cộng đồng người khác nhau với những yêu cầu về đức, trí, thể, mỹ nhất định. Song bao trùm và chính xác vẫn là con người cách mạng. Bởi phạm trù cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất xúc tích, hàm chứa tính lý luận cao. “Cách mạng là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”. Người cách mạng cũng bao hàm ý nghĩa đó. Người cách mạng luôn biết làm cho mình mới hơn, tốt hơn chứ không phải là chủ thể hành động phá cái xấu, cái cũ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi người đều có phần thiện, phần ác, có mặt mới, mặt cũ. Vấn đề ở chỗ mặt nào nhiều hơn và mỗi người phải phấn đấu sao cho những cái mới ngày càng nhiều, những cái cũ ngày càng ít. Quá trình hình thành con người mới là quá trình đấu tranh để xóa bỏ cái cũ, xây dựng cái mới từ thấp đến cao, từ chỗ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Đó cũng là cả quá trình nâng cao không ngừng và không có giới hạn cuối cùng cho sự vươn lên của mỗi người. Xây dựng con người mới là công việc không đơn giản, nhiều khó khăn hơn bất kỳ công việc nào, không thể một sớm một chiều mà thành công được. Xây dựng con người là cả một “công trình” khoa học. Trước hết, đây là quá trình con người tự xây dựng mình là chính, không chỉ về mặt thể lực mà cả đời sống vật chất và tinh thần trong sự phong phú đa dạng của nó. Mặt khác, trong quá trình xây dựng con người mới thì bản thân con người vẫn phải tiến hành mọi hoạt động của mình, vẫn phải đi qua mọi thời kỳ sống của cuộc sống con người và đứng trước những đòi hỏi, yêu cầu luôn đổi mới của xã hội. Hơn nữa, để xây dựng được con người mới không phải chỉ giải quyết những vấn đề trực tiếp của con người mà còn phải giải quyết hàng loạt vấn đề của đất nước, của xã hội thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau.

III. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ XÂY DỰNG VĂN HÓA, CON NGƯỜI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Xây dựng, phát triển văn hóa, con người có vai trò vô cùng quan trọng đối với mục tiêu phát triển và tiến bộ xã hội vì nó góp phần kiến tạo nền tảng tinh thần cho đất nước; tạo động lực, nguồn lực nội sinh cho sự phát triển bền vững đất nước và khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Chính vì thế, Đảng ta luôn chú trọng công tác xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa hiện nay.

Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn luôn coi trọng vai trò của văn hóa và hết sức quan tâm đến công tác xây dựng văn hóa trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, nhất là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, Đảng ta khẳng định: Con người là chủ thể, giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (7/1998) nêu những quan điểm chỉ đạo cơ bản, khẳng định “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng; văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng”.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ. Phải làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Phát triển, nâng cao chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật; khẳng định và biểu dương các giá trị chân, thiện, mỹ, phê phán những cái lỗi thời, thấp kém, đấu tranh chống những biểu hiện phản văn hóa. Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân. Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng, đồng bộ, hiện đại, thông tin chân thực, đa dạng, kịp thời, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Theo tinh thần các nghị quyết của Đảng, chúng ta phải nhận thức sâu sắc, đúng đắn, đầy đủ khái niệm văn hóa và vai trò, sứ mệnh của văn hóa đối với sự phát triển bền vững. Mỗi bước đi lên, phát triển của đất nước đều có dấu ấn và sự khai sáng của văn hóa. Cần phải nhận thức những yếu tố bản chất của văn hóa như văn hóa gắn với con người, phản ánh những mặt căn cốt như tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhân cách, tâm hồn, cách ứng xử. Văn hóa còn thì chế độ còn, văn hóa mất thì chế độ mất; không gì đáng sợ bằng văn hóa lâm nguy. Phát triển nền văn hóa toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Muôn việc thành công hay thất bại của cá nhân, tổ chức, cộng đồng, đất nước đều do có văn hóa hay tha hóa về văn hóa. Tập trung xây dựng văn hóa chính trị và các lĩnh vực văn hóa khác như văn hóa bổn phận, văn hóa công bộc, văn hóa ứng xử, văn hóa phê bình... Nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế, chính trị, xã hội.

Phát huy và trọng dụng nhân tố con người với tư cách là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo. Trọng dụng trí thức, nhân tài. Thực hiện chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người, tạo động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Về xây dựng con người Việt Nam, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII nêu nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam với những hệ giá trị chung thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đó là những con người có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung. Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội. Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định “con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI([31]) khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”.

Ngày 4/6/2020, Bộ Chính trị khóa XII ban hành Kết luận số 76-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW nhấn mạnh: “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của văn hoá trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng và phát triển văn hóa, con người là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò, ý nghĩa đặc biệt của việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, xác định một trong 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 là: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”“Tập trung nghiên cứu và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên”…“Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”

Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021 triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là một sự kiện đặc biệt quan trọng, tiếp tục khẳng định, làm rõ quan điểm, đường lối nhất quán của Đảng về phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong giai đoạn mới. Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần khẳng định vai trò to lớn của văn hóa: “Văn hóa còn là dân tộc còn”. Để tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hóa của dân tộc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ 06 nhiệm vụ:

(1) Khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc; phát huy cao độ những giá trị văn hóa, sức mạnh và tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, 2030, tầm nhìn 2045 mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.

(2) Xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hóa, giá trị của quốc gia - dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo.

(3) Phát triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa: bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả sáng tạo các giá trị văn hóa mới. 

Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh, gắn liền với đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, phi văn hóa, phản văn hóa; bảo vệ những giá trị chân - thiện - mỹ. Nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân; xây dựng đời sống văn hóa vui tươi, lành mạnh, hạnh phúc; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền của đất nước.

(4) Phát huy vai trò chủ thể sáng tạo, chủ thể thụ hưởng văn hóa là nhân dân; tôn trọng và bảo vệ sự biểu đạt đa dạng của văn hóa, của người dân, các dân tộc, các vùng, miền; phát triển các phong trào văn hóa sâu rộng, thực chất; cải thiện điều kiện, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân, bảo đảm sự công bằng. 

Đề cao, phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, của những người làm công tác văn hóa.

(5) Chú trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị về văn hóa, về đạo đức; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để Đảng ta và hệ thống chính trị của nước ta thật sự là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho lương tri và phẩm giá con người Việt Nam. 

Xây dựng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý; phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu theo tư tưởng, đạo đức, phong cách văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 

Nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng; hiệu quả quản lý của Nhà nước; sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong sự nghiệp phát triển văn hóa.

(6) Xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn hóa thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Khẩn trương phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh.

Về những giải pháp trong thời gian tới, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu tiếp tục nâng cao nhận thức và năng lực lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước nhằm bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong xây dựng, phát triển văn hóa từ trung ương đến cơ sở để đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. 

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng, cần quan tâm hơn nữa đến việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các vùng, miền, của đồng bào các dân tộc, kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa của thời đại. Phát triển "sức mạnh mềm" của văn hóa Việt Nam, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ, chú trọng xây dựng văn hóa ứng xử lành mạnh trong xã hội, phát huy những giá trị tích cực về thuần phong, mỹ tục của gia đình và xã hội; nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết; trọng tình nghĩa, trọng công lý và đạo lý xã hội. 

Để xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng cần từng bước khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại: “Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Những giá trị ấy được nuôi dưỡng bởi văn hóa gia đình Việt Nam với những giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; được bồi đắp, phát triển bởi nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hệ giá trị: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên nền tảng của hệ giá trị quốc gia và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc”.

Chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống, nhân cách, tâm hồn. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc.

Xây dựng và phát huy lối sống "Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người"; hình thành ý thức, lối sống tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, bảo vệ môi trường; kết hợp hài hòa tính tích cực cá nhân và tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; đấu tranh đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu.

IV. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI BÌNH THUẬN

1. Đặc điểm văn hóa, con người Bình Thuận

Bình Thuận là tỉnh duyên hải cực Nam Trung bộ, nằm ở vị trí là cầu nối, gắn kết các khu vực Đông Nam bộ - Duyên hải Miền Trung - Tây Nguyên và chịu ảnh hưởng của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Bình Thuận có lịch sử hình thành và phát triển hơn 330 năm, tổng diện tích tự nhiên 7.943,93km2, dân số khoảng 1.246.306 người.

Cư dân tỉnh Bình Thuận được hình thành trong quá trình di dân của nhiều lớp người từ các tỉnh phía Bắc và Trung Trung bộ đến từ thế kỷ XVII - XIX, gắn với chính sách đưa dân từ vùng Ngũ Quảng vào tiếp quản, gìn giữ chủ quyền trên vùng đất mới ở phía Nam của các vua chúa triều Nguyễn. Qua hàng thế kỷ, dân cư từ nhiều nơi đến khai phá, lập nghiệp, làm ăn có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, có sự giao thoa văn hóa giữa các vùng, miền, từ đó hình thành nên tính cách, bản sắc của con người Bình Thuận.

Nằm trong dòng chảy lịch sử - văn hóa Việt Nam, cộng đồng dân tộc ở Bình Thuận cũng được hình thành từ nguồn gốc nền văn hóa nông nghiệp lúa nước, văn hóa cộng đồng làng xã mang tính ổn định và khép kín đã tạo ra mỗi con người trong một cộng đồng có mối quan hệ họ hàng, máu thịt, gắn bó chặt chẽ với nhau. Cùng với những biểu hiện của tinh thần tập thể làm gì cũng có nhau, tính dân chủ làng xã, tình yêu quê hương xóm làng và yêu đất nước, lòng biết ơn,... Mặt khác, trải qua các thời kỳ lịch sử, trong quá trình khẩn hoang, lập làng đầy gian truân, vất vả, thăng trầm của người Việt trên đất Bình Thuận cũng đã tạo nên nét đặc trưng riêng của văn hóa, con người Bình Thuận mà cho dù họ ở bất cứ nơi đâu, đến bất cư nơi nào chúng ta cũng dễ nhận ra: Đó là tính cách giản dị, dân dã mà bộc trực, chân thật, thẳng thắn, luôn cởi mở, chân tình, bao dung và độ lượng cùng những đức tính cần cù, chịu thương chịu khó, sáng tạo, lạc quan, luôn mạnh mẽ vươn lên đương đầu với khó khăn, thử thách, tinh thần tự lực tự cường, đoàn kết trong lao động, trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm cùng tinh thần hiếu học là những phẩm chất quý giá mang giá trị văn hóa tinh thần quan trọng đã và đang được phát huy, lan tỏa mạnh mẽ trong suốt chặng đường xây dựng, phát triển quê hương Bình Thuận cho đến ngày nay.

Người dân Bình Thuận có giọng nói mang âm sắc đặc trưng riêng và về cả văn hóa ẩm thực đặc sắc cũng là sự pha trộn, giao thoa của các cộng đồng dân tộc; văn hóa, con người Bình Thuận đề cao mối quan hệ gia đình, dòng tộc, cộng đồng: xây đình làng([32]), chùa chiền, nhà thờ tộc, thờ cúng ông bà tổ tiên; người Bình Thuận có tâm thức hướng biển với tục thờ cá Ông của lớp ngư dân tại các vùng ven biển đã lập nên những lăng vạn, dinh vạn thờ phụng cá voi - ông Nam Hải từ rất sớm([33]).

Bình Thuận là nơi hội tụ của cả văn hóa núi rừng của nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số, toàn tỉnh có 35 dân tộc cùng chung sống hòa thuận lâu đời, trong đó đông nhất là dân tộc Kinh; tiếp đến là các dân tộc Chăm, Raglai, Cờho, Hoa, Tày, Nùng, Chơ ro, Mường,.... với nhiều lễ hội truyền thống, lễ hội tín ngưỡng tôn giáo, văn hóa di tích lịch sử, các công trình kiến trúc độc đáo và các làng nghề truyền thống đã góp phần hình thành nên không gian văn hóa đầy màu sắc của Bình Thuận. Tính đa dạng về văn hóa là một trong những thế mạnh của hệ sinh thái nhân văn, tạo nên nét đẹp riêng của văn hóa tâm linh địa phương và của từng dân tộc ở Bình Thuận. Đây không chỉ là tài sản quốc gia mà còn là nguồn tài nguyên nhân văn hấp dẫn, là nhân tố quan trọng trong gìn giữ, xây dựng, phát triển văn hóa, con người Bình Thuận, đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững đất nước nói chung, Bình Thuận nói riêng.

Bình Thuận còn được du khách khắp nơi nhớ đến là vùng đất nên thơ của “biển xanh, cát trắng, nắng vàng”. Điều đặc biệt hơn nữa là nhớ đến Trường Dục Thanh, nơi Bác Hồ đã dừng chân dạy học, nhớ đến những người con của Bình Thuận kiên trung một lòng theo Đảng, theo cách mạng... Với tất cả sự trân trọng, tự hào đó, Bình Thuận đã vinh dự được Trung ương trao tặng 12 chữ vàng “Tự lực, tự cường, chiến đấu oanh liệt, thắng lợi vẻ vang”.

Trên nền tảng các giá trị văn hóa truyền thống, kết hợp với sức ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, văn hóa, con người Bình Thuận hiện nay vừa lưu giữ những nét văn hóa truyền thống, vừa mang những nét văn hóa hiện đại đã tạo nên sức mạnh, văn hóa nội sinh và là nguồn lực quan trọng để xây dựng, bảo vệ quê hương Bình Thuận trong tình hình mới.

2. Thực trạng xây dựng và phát triển văn hóa, con người Bình Thuận

2.1. Kết quả đạt được

Trong thời gian qua, nhằm quán triệt và thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đặc biệt là Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Tỉnh ủy Bình Thuận cũng đã ban hành Chương trình hành động số 29-NQ/TU, ngày 11/7/2014 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Bình Thuận đã có những chuyển biến tích cực, đạt kết quả quan trọng.

* Về xây dựng con người Bình Thuận phát triển toàn diện

Thống nhất quan điểm con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam làm nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững. Trong những năm qua, Bình Thuận với tiềm năng lợi thế sẵn có về nhiều mặt, đặc biệt là tiềm năng và lợi thế của một địa phương có bề dày lịch sử văn hóa, con người đã trải qua nhiều thăng trầm, khắc nghiệt của lịch sử nhưng với tinh thần lạc quan, ý chí tự lực, tự cường, luôn mang trong mình khát vọng vươn lên mãnh liệt, các thế hệ lãnh đạo và nhân dân tỉnh Bình Thuận đã không ngừng phát huy để xây dựng quê hương ngày càng phồn vinh, xứng tầm với công sức khai mở, vun bồi của những bậc tiền nhân. Trong suốt chiều dài phát triển của mình, vùng đất và con người Bình Thuận đã không ngừng bồi đắp và làm phong phú thêm những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, miệt mài sáng tạo những thành quả mới để khẳng định vị thế trên bản đồ đất nước và để Bình Thuận có được diện mạo như ngày nay.

Để xây dựng và phát triển văn hóa, con người Bình Thuận, góp phần xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, việc xây dựng văn hóa trong chính trị được quan tâm triển khai gắn với việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hiện các Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Ban Thường vụ Tỉnh ủy thường xuyên chỉ đạo đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, học tập chủ nghĩa yêu nước, lòng tự hào dân tộc truyền thống cách mạng, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong đó có các văn bản, Nghị quyết chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về văn hóa đến cán bộ, đảng viên và Nhân dân góp phần đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đồng thời góp phần cung cấp thêm cơ sở lý luận và thực tiễn để mỗi cán bộ, đảng viên và người dân đã và đang tham gia một cách mạnh mẽ, tích cực vào công cuộc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới, đấu tranh chống lại cái xấu, cái tiêu cực làm ảnh hưởng xấu đến các giá trị văn hóa; bảo vệ cái đúng, cái đẹp, cái cao thượng; nhân rộng, lan tỏa những giá trị tốt đẹp, nhân văn của đất nước, con người, cá nhân và cộng đồng dân tộc.

Tỉnh ủy cũng đã chỉ đạo xây dựng quy tắc ứng xử, quy định về chuẩn mực văn hóa trong từng cơ quan, đơn vị, địa phương. Đưa nội dung xây dựng cơ quan, đơn vị đạt chuẩn văn hóa thành một trong những tiêu chí đánh giá, phân loại tổ chức cơ sở Đảng hàng năm([34]). Đến nay, các cơ quan, đơn vị trong tỉnh đều xây dựng nội quy, quy chế, các quy định về chuẩn mực đạo đức, tác phong, lề lối làm việc của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức gắn với đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân.

Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được đẩy mạnh và quyết liệt thực hiện trong những năm qua cũng đã đạt được những kết quả quan trọng([35]). Qua đó, nâng cao ý thức, lương tâm, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ, từng bước đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, xây dựng văn hóa trong Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, lành mạnh. Đồng thời, hướng đến xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, đạo đức, năng lực, uy tín đáp ứng yêu cầu phát triển quê hương Bình Thuận ngày càng bền vững.

Công tác giáo dục - đào tạo được chú trọng theo hướng tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Mạng lưới trường, lớp được quy hoạch, sắp xếp phù hợp theo hướng chuẩn hóa. Sở Giáo dục và Đào tạo đã triển khai các tiêu chí xây dựng trường học nhằm giáo dục, rèn luyện học sinh về lý tưởng, phẩm chất, nhân cách, đạo đức, công dân, lối sống văn hóa, giáo dục truyền thống văn hóa, lịch sử đất nước cho học sinh, học viên, sinh viên, góp phần phát triển nguồn nhân lực, phục vụ quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

* Về phát triển và nâng cao hiệu quả của các hoạt động văn hóa:

Công tác quản lý nhà nước về văn hóa, nghệ thuật được tăng cường. Đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt. Việc củng cố, kiện toàn, bổ nhiệm cán bộ làm công tác văn hóa bảo đảm công khai, minh bạch, đúng quy định. Công tác phát hiện, bồi dưỡng đối với lực lượng trẻ, có năng khiếu văn hóa, nghệ thuật được chú trọng. Đội ngũ văn nghệ sĩ đã chủ động sáng tác nhiều tác phẩm văn hóa có giá trị cao, phục vụ tốt nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần của nhân dân. Các hoạt động lễ hội văn hóa tiêu biểu của tỉnh đã và đang hoạt động theo hướng nâng cao chất lượng, phù hợp với phong tục truyền thống của địa phương([36]). Theo đó, các lễ hội truyền thống được giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng các dân tộc trong tỉnh, đồng thời phục vụ nhu cầu thưởng thức nghệ thuật, tìm hiểu văn hóa dân tộc cho mọi tầng lớp nhân dân gắn với hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch của tỉnh nhà góp phần tạo sự đoàn kết gắn bó giữa các dân tộc trong tỉnh.

Việc xây dựng các thiết chế văn hóa trong những năm qua cũng được tỉnh quan tâm đầu tư xây dựng, nâng cấp([37]). Các hoạt động đầu tư, sửa chữa khôi phục, tôn tạo các di tích văn hóa - lịch sử được quan tâm thực hiện([38]).

Công tác phổ biến các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về văn hóa đến đội ngũ văn nghệ sĩ được duy trì thường xuyên. Quan tâm, chú trọng việc không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng vừa bảo đảm để văn hóa, văn học - nghệ thuật, báo chí phát triển đúng định hướng chính trị, vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ trong sáng tác được chú trọng.

Hoạt động văn hóa, nghệ thuật đã có bước chuyển biến tiến bộ. Phong trào văn nghệ quần chúng phát triển ngày càng rộng khắp, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần của nhân dân. Công tác bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể gắn với phát triển kinh tế - xã hội được chú trọng và triển khai có hiệu quả([39]); đầu tư xây dựng, sửa chữa một số khu lưu niệm lịch sử cách mạng, bia lịch sử tiêu biểu tiếp tục được thực hiện, góp phần giáo dục truyền thống lịch sử văn hóa lâu đời cũng như truyền thống cách mạng vẻ vang của vùng đất, con người Bình Thuận đến cán bộ, đảng viên và nhân dân.

* Về xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh: Việc xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh được chú trọng gắn với xây dựng nền tảng văn hóa của xã hội.

Đưa nội dung thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội; xóa dần các hủ tục rườm rà trong nghi thức cưới, hỏi, ma chay theo hướng không phô trương, tiết kiệm, gắn kết tình làng nghĩa xóm. Đẩy lùi mê tín dị đoan, xóa dần nạn tảo hôn ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số hướng đến xây dựng nếp sống văn minh.

Các cơ quan, đơn vị, địa phương đã quan tâm xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được các cấp ủy, các ngành thường xuyên chỉ đạo thực hiện, xem đây là “hạt nhân” của việc thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW, Chương trình hành động số 29-NQ/TU. Ban Chỉ đạo thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” của tỉnh đã rà soát, điều chỉnh các tiêu chí thi đua gắn với việc xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh; trong đó, đã chú trọng xây dựng “Gia đình văn hóa”([40]), “Thôn, khu phố văn hóa”([41]); Cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”; Cuộc vận động xây dựng Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”, “Phường, thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị”“Cơ sở thờ tự và Dòng tộc văn hóa” đã trở thành những phong trào mạnh mẽ, tác động tích cực đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương gắn với phong trào xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, góp phần xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh ở cơ sở, từng bước ổn định và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân trên địa bàn toàn tỉnh tạo sự chuyển biến quan trọng trong xây dựng đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh, phong phú ở khu dân cư, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, tạo sự đồng thuận trong xã hội, phát huy dân chủ, tuyên truyền nhân dân chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng tiếp tục được phát huy; phong trào “Đền ơn, đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”, chăm lo cho đối tượng chính sách, gia đình thương binh, liệt sĩ, mẹ Việt Nam anh hùng, hỗ trợ, giúp đỡ người trong khó khăn hoạn nạn, thiên tai, dịch bệnh; giúp đỡ cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn được đến trường; xuất hiện nhiều cách làm hay trong việc xây dựng thôn, khu phố thực hiện tốt công tác đấu tranh, phòng chống tệ nạn xã hội; các phong trào xây dựng “dòng họ hiếu học”, “ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo” tiếp tục được phát huy… các phong trào thi đua, các cuộc vận động đã trở thành phong trào thi đua yêu nước của quần chúng, tạo sức lan tỏa trong cộng đồng, tác động tích cực đến xây dựng con người Bình Thuận phát triển toàn diện.

Việc xây dựng hệ giá trị văn hóa, con người Bình Thuận gắn với xây dựng hệ giá trị gia đình Việt Nam đã và đang được quan tâm mạnh mẽ và cụ thể hóa các giá trị văn hóa, con người và gia đình Bình Thuận thông qua việc Sở Văn hóa, Thể thao và Du dịch đang triển khai xây dựng đề án “Hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Bình Thuận gắn với gìn giữ, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam”. Theo đề án, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Bình Thuận bao gồm: “Dân tộc, dân chủ, nhân văn, pháp quyền, đoàn kết, yêu nước, bất khuất, kiên cường, trung dũng, trung thực, trách nhiệm, sáng tạo, cần cù và không ngại hy sinh, gian khổ”. Đề án được thông qua sẽ góp phần lan tỏa mạnh mẽ việc nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong việc xây dựng và phát huy các giá trị văn hóa, sức mạnh con người Bình Thuận nhằm hướng đến xây dựng, phát triển nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, ý thức tuân thủ pháp luật; tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi công dân với gia đình, cộng đồng và xã hội.

Tóm lại, trong xu thế của toàn cầu hóa đã và đang tác động đến tất cả các quốc gia trên thế giới, đem đến cả cơ hội và thách thức mới đối với phát triển toàn cầu, trong đó có phát triển văn hóa và con người. Làm thế nào để nâng cao sức đề kháng của văn hóa, con người trước những biến đổi của xã hội, trước sự hội nhập mạnh mẽ về văn hóa để vừa làm giàu thêm bản sắc văn hóa dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại một cách có định hướng, chọn lọc phù hợp với đất nước, con người Việt Nam. Từ đó, xây dựng một hệ giá trị, chuẩn mực văn hóa, con người Việt Nam nói chung, Bình Thuận nói riêng là điều vô cùng quan trọng. Có như vậy, văn hóa mới thật sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực quan trọng để khơi dậy khát vọng xây dựng và phát triển quê hương Bình Thuận ngày càng phồn vinh, giàu mạnh.

2.2. Những khó khăn, hạn chế

Quá trình xây dựng đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, các chuẩn mực giá trị văn hóa con người Việt Nam nói chung, Bình Thuận nói riêng đang bị tác động, ảnh hưởng, đứng trước những chuyển biến và thay đổi lớn. Các giá trị văn hóa mang bản sắc văn hóa truyền thống đang phải đối mặt với xu hướng biến đổi, các biểu hiện văn hóa phi truyền thống có xu hướng gia tăng và tồn tại trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội.

Một số cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội và một bộ phận Nhân dân nhận thức chưa đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò quan trọng của việc xây dựng, phát triển hệ giá trị văn hóa, chuẩn mực con người Bình Thuận gắn với gìn giữ, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam đối với phát triển bền vững đất nước. Các đặc trưng cơ bản của nền văn hóa là “dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học” cùng quan điểm xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp; xây dựng các nguyên tắc, mối quan hệ, ứng xử đúng đắn, bình đẳng, chia sẻ trách nhiệm trong gia đình, dòng tộc, cộng đồng chưa được quán triệt thường xuyên; sự phối hợp giữa gia đình - nhà trường - xã hội trong giáo dục vẫn còn chưa thường xuyên, chặt chẽ.

Thực tế cho thấy, so với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và những thành tựu đạt được trên lĩnh vực kinh tế, những kết quả đạt được trong lĩnh vực xây dựng văn hóa, con người Bình Thuận chưa tương xứng và chưa thật sự bền vững. Sự suy thoái về đạo đức, lối sống, bạo lực gia đình, khiếu kiện, tranh chấp tài sản, đất đai trong gia đình và dòng tộc... vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi. Lối sống hướng ngoại đang trở thành trào lưu trong giới trẻ. Đời sống văn hóa tinh thần ở vùng nông thôn, miền núi, hải đảo,... còn đơn điệu; một số hủ tục, mê tín dị đoan, tập quán lạc hậu của các dân tộc thiểu số chưa được loại bỏ hoàn toàn. Ý thức của người dân trong việc giữ gìn, bảo vệ môi trường, các giá trị văn hóa truyền thống chưa cao và chưa đồng bộ.

Mặt trái của cơ chế thị trường, sự bùng nổ của công nghệ thông tin làm cho người dân tiếp cận thông tin đa chiều, trong đó có những thông tin có hại, những tư tưởng lạc hậu còn tồn tại trong đời sống hàng ngày đã ảnh hưởng tiêu cực đến suy nghĩ, nhận thức của con người.

Vai trò của văn hóa trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng nặng về chức năng giải trí. Thành tựu trên lĩnh vực xây dựng văn hóa, con người chưa tương xứng với những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Lồng ghép, gắn kết giữa xây dựng văn hóa với xây dựng con người chưa thường xuyên, hiệu quả chưa cao.

Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và trong xã hội vẫn còn xảy ra; ý thức trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân chưa tốt; một số cán bộ, đảng viên tiêu cực, tham nhũng, vi phạm pháp luật đã làm ảnh hưởng đến uy tín của đảng bộ, chính quyền các cấp. Lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, coi nặng lợi ích vật chất, sống thiếu tình người, coi nhẹ đạo lý làm người trong một bộ phận nhân dân, nhất là trong giới trẻ đang là vấn đề đáng quan tâm.

Chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” có mặt còn hạn chế; việc xét, công nhận các danh hiệu “Gia đình văn hóa”, “Thôn, khu phố văn hóa” một số nơi còn hình thức, chưa thực chất.

Hoạt động văn hóa, văn nghệ phát triển chưa đều; chưa có nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, sức lan tỏa còn hạn chế. Các thiết chế văn hóa nhiều nơi còn thiếu, chưa đáp ứng tốt nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần của nhân dân. Việc quản lý, duy tu, bảo dưỡng, phát huy hiệu quả sử dụng các công trình nhà văn hóa, hệ thống truyền thanh cấp xã còn bất cập, nhiều nơi bị hư hỏng, xuống cấp. Một số giá trị văn hóa lịch sử, truyền thống cách mạng chưa được khai thác, phát huy đúng mức. Đạo đức kinh doanh, trách nhiệm xã hội của một số doanh nghiệp, hộ gia đình chưa được đề cao đúng mức; các hành vi gian lận thương mại, buôn bán hàng giả, hàng cấm, hàng kém chất lượng, vi phạm các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm chưa được ngăn chặn có hiệu quả.

3. Một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm nhằm phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Bình Thuận trong sự nghiệp xây dựng và phát triển quê hương

3.1. Tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của văn hoá, con người trong sự nghiệp xây dựng, phát triển quê hương Bình Thuận

Các cấp ủy tổ chức quán triệt và thực hiện tốt Kế hoạch số 28-KH/TU, ngày 28/5/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bình Thuận về thực hiện Kết luận số 76-KL/TW của Bộ Chính trị (khoá XII) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (viết tắt là Kế hoạch số 28-KH/TU);  Kế hoạch số 2332/KH-UBND, ngày 28/6/2021 về triển khai thực hiện Quyết định số 2215/QĐ-TTg, ngày 24/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ và Kế hoạch số 28-KH/TU (viết tắt là Kế hoạch 2332/KH-UBND) và Hướng dẫn số 93-HD/BTGTW, ngày 01/02/2023 của Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng về tuyên truyền kỷ niệm 80 năm ra đời “Đề cương về văn hóa Việt Nam” (1943 - 2023) đến toàn thể cán bộ, đảng viên và tuyên truyền trong nhân dân.

Nghiêm túc quán triệt những chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hoá toàn quốc ngày 24/11/2021, đây cũng chính là phương châm hành động xuyên suốt của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam; thể hiện quyết tâm xây dựng, giữ gìn, khát vọng phát triển đất nước. Các cấp ủy, chính quyền các cấp phải nhận thức sâu sắc và quán triệt đầy đủ các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về văn hoá, con người và trên cơ sở đó xây dựng các chương trình, kế hoạch thực hiện, huy động tối đa các nguồn lực để phát triển văn hóa, con người. Quán triệt Nghiêm túc tinh thần Đại hội XIII của Đảng: Chiến lược phát triển tổng thể của đất nước ta trong thời gian tới là đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.

Gắn các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển văn hoá và xây dựng con người Bình Thuận với các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành, từng cấp. Phát huy năng lực, trách nhiệm người đứng đầu các cấp trong xây dựng và phát triển văn hóa, con người Bình Thuận phục vụ mục tiêu phát triển địa phương bền vững.

Các cơ quan báo chí, truyền thông tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền đối với các văn bản chỉ đạo của Trung ương liên quan đến xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Thông qua đó nhằm khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, phát huy cao độ những giá trị văn hoá, con người nhằm tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để xây dựng quê hương Bình Thuận ngày càng phát triển phồn vinh, hạnh phúc.

Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy phối hợp với Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh, Báo Bình Thuận tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng Giải Cờ đỏ. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch với Hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh về hoạt động sáng tác, phổ biến và quảng bá các tác phẩm văn học nghệ thuật; có chính sách tài trợ sáng tạo văn học nhằm khuyến khích, động viên văn nghệ sĩ sáng tác, quảng bá, lưu hành những tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị.

Chủ động phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong nội bộ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên, người lớn tuổi, người có uy tín trong gia đình, dòng họ, cộng đồng, xã hội, vai trò xung kích, tình nguyện của thế hệ trẻ.

Đẩy mạnh tổ chức quảng bá, giới thiệu các giá trị văn hoá, nghệ thuật, hình ảnh quê hương, con người Bình Thuận và Việt Nam ra nước ngoài; tăng sự hiện diện của Bình Thuận tại các sự kiện văn hoá - nghệ thuật có quy mô, uy tín ở trong nước và quốc tế. Khuyến khích, tạo điều kiện cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài, các cơ quan báo chí nước ngoài, các tổ chức quốc tế đầu tư nguồn lực, tham gia quảng bá hình ảnh đất nước, văn hoá, con người Việt Nam nói chung, Bình Thuận nói riêng.

3.2. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về văn hoá; nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật

Quản lý chặt chẽ hoạt động báo chí, xuất bản. Nâng cao tính chiến đấu của hoạt động văn hóa, báo chí. Kịp thời cung cấp những thông tin chính thống, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực văn hóa - tư tưởng. Đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, các khuynh hướng sáng tác phản tiến bộ, phản nhân văn, tha hóa con người trong lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ thuật.

Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về văn hoá từ tỉnh đến cơ sở theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Tăng cường công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hoá và xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm trên lĩnh vực văn hóa. Bên cạnh đó, tăng cường các biện pháp phòng ngừa sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa gây phương hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc.

Tăng cường công tác quản lý và tổ chức lễ hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động văn hoá - nghệ thuật, thông tin tuyên truyền, cổ động. Tiếp tục chuyển mạnh các hoạt động, phong trào văn hoá, văn nghệ về cơ sở, chú trọng vùng xa, vùng đồng bào dân tộc và đảo Phú Quý. Khuyến khích các hoạt động sáng tạo để có nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao phục vụ đời sống nhân dân.

Có biện pháp sử dụng hiệu quả các thiết chế văn hoá hiện có. Tiếp tục đầu tư các thiết chế văn hoá ở các cấp đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nhân dân, nhất là cấp cơ sở. Làm tốt công tác bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá vật thể, phi vật thể, chú ý các giá trị văn hoá đặc trưng của vùng đồng bào dân tộc thiểu số gắn với phát triển kinh tế - xã hội, quảng bá phát triển du lịch địa phương. Quan tâm đầu tư phát triển và nâng cao hiệu quả các hoạt động văn hoá nghệ thuật, bảo tồn và phát huy nghệ thuật truyền thống thông qua hoạt động biểu diễn, kết nối và quảng bá du lịch; nghiên cứu, sưu tầm văn hoá các dân tộc trong tỉnh. Trước mắt, các hoạt động văn hóa của từng địa phương phải gắn với chủ đề của năm du lịch quốc gia 2023 “Bình Thuận - Hội tụ xanh”.

Quan tâm xây dựng đội ngũ làm công tác văn hoá, nghệ thuật; chú ý công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý và hoạt động chuyên ngành trên lĩnh vực văn hoá, thể thao, du lịch.

Sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vật chất, tinh thần của địa phương để phát triển kinh tế - xã hội, tạo thêm công ăn việc làm cho người dân, giải quyết nạn thất nghiệp, thực hiện tốt an sinh xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh.

Rà soát, bổ sung và hoàn thiện các chính sách hỗ trợ các nghệ nhân trong truyền dạy, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống.

Xây dựng môi trường văn hoá số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn hoá thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững địa phương trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. Thu hút các nguồn lực bên ngoài hỗ trợ và từng bước xây dựng, phát triển các ngành công nghiệp văn hoá, xây dựng thị trường văn hoá lành mạnh tại địa phương.

3.3. Coi trọng xây dựng văn hóa trong Đảng và hệ thống chính trị

Xây dựng văn hoá trong Đảng, cơ quan Nhà nước và các đoàn thể tăng cường với đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Tiếp tục chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Thực hiện nghiêm Kết luận số 21-KL/TW về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”; Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị (khóa XIII) về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Hướng dẫn số 06-HD/TU, ngày 12/01/2023 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy tổ chức đợt sinh hoạt chính trị với chủ đề “Giữ trọn lời thề đảng viên”.

Tiếp tục nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, bảo đảm thực hiện các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tăng cường sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng nhằm tạo sự thống nhất cao về tư tưởng và hành động. Nâng cao văn hóa tự phê bình và phê bình trong Đảng trên tinh thần từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, từ người đứng đầu đến cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu phải gương mẫu tự soi, tự sửa. Phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng trong giám sát, phê bình tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên với những hình thức phù hợp. Xây dựng văn hóa công vụ, công sở lành mạnh, dân chủ, đoàn kết, nhân văn; đẩy lùi bệnh quan liêu, bè phái, chủ nghĩa cơ hội và thực dụng.

Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Xây dựng đội ngũ cán bô, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, tận tụy với công việc và phục vụ nhân dân; có ý thức thượng tôn pháp luật, dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Thực hiện nghiêm việc tiếp dân định kỳ hoặc đột xuất để tiếp nhận thông tin, lắng nghe, đối thoại trực tiếp và xử lý những kiến nghị, đề xuất của nhân dân; kiên quyết chống thái độ thờ ơ, vô cảm, quan liêu, mệnh lệnh, hách dịch, nhũng nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân. Xây dựng văn hóa trong cơ quan Đảng, hệ thống chính trị để tạo động lực, niềm tin và lan toả mạnh mẽ trong nhân dân. Đề cao vai trò tiên phong, gương mẫu của mỗi cán bộ, công chức, viên chức, mà trước hết là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức; xây dựng và thực hiện các chuẩn mực văn hóa đạo đức trong lãnh đạo, quản lý, làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hàng ngày. Xây dựng và kịp thời biểu dương những cán bộ, đảng viên thật sự trọng dân, gần dân, học dân, có trách nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin. Chủ động phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn, xử lý nghiêm các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”.

Tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số (nhận thức số, thể chế số, hạ tầng số, dữ liệu số, nền tảng số, nhân lực số, an toàn thông tin mạng, chính quyền số, kinh tế số, xã hội số) ở từng đơn vị, địa phương. Thực hiện tốt các cơ chế phản biện xã hội nhằm minh bạch hóa các hoạt động của hệ thống chính trị.

3.4. Tập trung xây dựng văn hoá, con người Bình Thuận phát triển toàn diện về trí tuệ, thể chất, phẩm chất đạo đức

Bằng nhiều hình thức để bồi dưỡng thường xuyên, liên tục, xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Bình Thuận hướng đến chân, thiện, mĩ. Khẩn trương phê duyệt Đề án Hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Bình Thuận gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam. Hướng các hoạt động văn hoá, giáo dục, khoa học vào việc xây dựng con người Bình Thuận với các chuẩn mực giá trị văn hóa “dân tộc, dân chủ, nhân văn, pháp quyền, đoàn kết, yêu nước, bất khuất, kiên cường, trung dũng, trung thực, trách nhiệm, sáng tạo, cần cù và không ngại hy sinh, gian khổ”.

Tăng cường giáo dục thẩm mỹ, gắn giáo dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh, thiếu niên. Xây dựng lối sống tuân thủ pháp luật, tôn trọng đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, “tương thân tương ái”. Xây dựng và phát huy lối sống có ý thức tự chủ, tự giác, chấp hành pháp luật và bảo vệ môi trường; đề cao trách nhiệm của cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn.

Tiếp tục thực hiện Chiến lược quốc gia về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Nghị quyết số 20 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới. Xây dựng và thực hiện hiệu quả Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2030 nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc. Tiếp tục thực hiện Đề án tổng thể Nâng cao thể lực và tầm vóc con người Việt Nam; triển khai hiệu quả Phong trào “Rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” trong nhân dân.

Xây dựng và phát triển hệ thống y tế từng bước hiện đại và đồng bộ theo hướng công bằng, hiệu quả; bảo đảm mọi người dân trong tỉnh được hưởng các dịch vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe ban đầu, mở rộng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng. Nâng cao chất lượng giáo dục thể chất và hoạt động thể thao trường học, lực lượng vũ trang. Chú trọng đầu tư phát triển các môn thể thao mũi nhọn phù hợp với đặc điểm thể chất của con người Bình Thuận và điều kiện kinh tế của tỉnh.

3.5. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; xây dựng và bồi dưỡng những điển hình tiêu biểu về văn hóa

Tiếp tục triển khai có hiệu quả phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” gắn liền với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” và phong trào thi đua ở thôn, khu phố giai đoạn 2025-2030 và những năm tiếp theo theo hướng đúng thực chất. Phát huy hiệu quả các giá trị của quy ước, hương ước và các giá trị văn hóa truyền thống trong xây dựng con người Bình Thuận thân thiện, nghĩa tình.

Xây dựng và phát huy vai trò của gia đình; xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh; phát huy và nhân rộng các mô hình gia đình văn hoá tiêu biểu, ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, vợ chồng hoà thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau.

Xây dựng môi trường văn hoá đoàn kết, dân chủ, văn minh trong từng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị với phương châm sát chức năng, nhiệm vụ, ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thực hiện, dễ đánh giá.

Xây dựng chuẩn mực văn hoá trong giáo dục đào tạo; phát huy tốt vai trò nêu gương của thầy cô giáo trong việc giáo dục, rèn luyện học sinh, sinh viên nhằm nâng cao lý tưởng, phẩm chất, nhân cách, kỹ năng sống; tăng cường giáo dục văn hoá truyền thống cho trẻ em, học sinh, sinh viên.

Xây dựng văn hoá trong kinh tế, nhất là đạo đức kinh doanh, chống gian lận thương mại; xây dựng đội ngũ doanh nhân giỏi, kinh doanh đúng pháp luật, đóng góp có trách nhiệm cho cộng đồng và xã hội. Đẩy mạnh cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Khuyến khích các doanh nghiệp, doanh nhân tích cực xây dựng và phát triển sản phẩm thế mạnh của từng địa phương; duy trì và phát triển có hiệu quả sản phẩm OCOP.

Xây dựng môi trường văn hoá xã hội đảm bảo an ninh, an toàn, trật tự, kỷ cương; xây dựng ý thức chấp hành pháp luật của mọi thành viên trong xã hội.

Triển khai sâu rộng các phong trào thi đua yêu nước, biểu dương, tôn vinh gương điển hình tiên tiến với phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, “lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực”. Đẩy mạnh đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái thấp hèn, lạc hậu, hành vi sai trái, tiêu cực làm tha hóa con người.

Thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống tệ nạn xã hội; các giải pháp ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội. Chủ động đấu tranh loại trừ các sản phẩm văn hoá độc hại; lối sống vị kỷ, thực dụng; các hành vi mê tín dị đoan, trái thuần phong mỹ tục của dân tộc, vi phạm pháp luật, ảnh hưởng xấu đến xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam./.

-----------

 


([1]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, t.3, tr.458.

([2]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.458

([3]) Hồ Chí Minh, Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần I,1946

([4]) Hồ Chí Minh: Về văn hoá, Bảo tàng Hồ Chí Minh xuất bản, H.1997, tr.319-320.

([5]) Bác Hồ với nghệ sĩ, Nxb Tác phẩm mới, H.1985, tr.335.

([6]) Hồ Chí Minh: Về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh xuất bản, H.1997, tr.350.

([7]) Hồ Chí Minh: Văn hóa nghệ thuật cũng là mặt trận, Nxb Văn học, H.1981, tr.516-517.

([8]) Giáo trình cao cấp lý luận chính trị, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2014, t.4, tr.151.

([9]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.246.

([10]) Hồ Chí Minh: Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb Văn học, H.1981, tr.356.

([11]) Bác Hồ với văn nghệ sĩ, Nxb Tác phẩm mới, H.1985, tr.335.

([12]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.288.

([13]) Bác Hồ với văn nghệ sĩ, Nxb Tác phẩm mới, H.1985, tr.348.

([14]) Hồ Chí Minh: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, tr.365.

([15]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.668.

([16]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.68.

([17]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.528.

([18]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.672.

([19]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.672.

([20]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5,tr.338

([21]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.388

([22]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.603

([23]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.603

([24]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.354

([25]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.398

([26]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.415

([27]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.357

([28]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.357

([29]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.672

([30]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.627

([31]) Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9/6/2014 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

([32]) Đình Xuân An (Chợ Lầu) được xây dựng năm 1794; Đình làng Đức Thắng (Phan Thiết) được xây dựng từ năm 1816; đình làng Đức Nghĩa xây dựng vào giữa thế kỷ XIX.

([33]) Dinh Vạn Thủy Tú (Phan Thiết) được xây dựng năm từ 1762; Vạn An Thạnh (Phú Quý) được xây dựng năm từ 1781; Lăng Ông Nam Hải (Tuy Phong) được xây dựng từ đầu thế kỷ XIX.

([34]) Năm 2022, có 1.406/1.475 cơ quan, đơn vị đạt danh hiệu “Cơ quan, đơn vị, Doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa”.

([35]) Từ năm 2013 - 2023, qua công tác kiểm tra, thanh tra phát hiện 46 tổ chức và 61 trường hợp vi phạm về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

([36]) Hiện nay, Bình Thuận có trên 150 nghi lễ dân gian gian và hoạt động lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo ở nhiều cấp độ quy mô khác nhau, năm 2009 tỉnh đã chọn 05 lễ hội văn hóa phục vụ phát triển du lịch theo Kế hoạch 2485/KH-UBND, các lễ hội tiêu biểu như: Katê của đồng bào Chăm theo đạo Bàlamôn; lễ hội Ramưwan của đồng bào Chăm theo đạo Bàni; lễ hội Trung thu (lễ hội mới); lễ hội Nghinh Ông của bà con người Hoa; lễ hội Dinh Thầy - Thím.

([37]) Đến nay, 10/10 huyện, thị xã, thành phố đã thành lập Trung tâm Văn hóa - Thể thao. Các thiết chế văn hóa cơ sở từng bước được đầu tư gắn với xây dựng nông thôn mới; đã xây mới 60/127 nhà văn hóa cấp xã; trong đó có 38 xã có nhà văn hóa đạt chuẩn nông thôn mới và 22 xã có nhà văn hóa chưa đạt chuẩn đang tiếp tục được nâng cấp trong giai đoạn 2016 - 2020; có 602/706 thôn, khu phố có hội trường được trang bị hệ thống âm thanh để sinh hoạt; số thôn, khu phố còn lại đang tạm sử dụng các Trung tâm học tập cộng đồng hoặc nhà dân để hoạt động.

([38]) Gồm: Đền tháp Po Đam, đền thờ Hùng Vương (huyện Tuy Phong); đền tháp Pô Sah Inư, Đình làng Đức Thắng, mộ cụ Nguyễn Thông (thành phố Phan Thiết); chùa Linh Sơn Trường Thọ (huyện Hàm Thuận Nam); di tích lịch sử - văn hóa đình Lạc Tánh (huyện Tánh Linh); di tích lịch sử - cách mạng Dốc Ông Bằng (thị xã La Gi); chùa An Lạc (huyện Hàm Thuận Bắc).

([39]) Bình Thuận hiện có 28 di tích lịch sử - văn hóa, kiến trúc nghệ thuật đã được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch xếp hạng cấp quốc gia; Trong số 28 di tích này có 5 di tích của đồng bào dân tộc Chăm, gồm: Nhóm đền tháp Chăm Pô Sah Inư (phường Phú Hài, thành phố Phan Thiết); Di tích lịch sử và nghệ thuật Đền thờ Pô Klong Mơh Nai (thị trấn Lương Sơn, huyện Bắc Bình); Bộ sưu tập di sản văn hóa Hoàng tộc Chăm (xã Phan Thanh, huyện Bắc Bình); Đền thờ Pô Nít (xã Phan Hiệp, huyện Bắc Bình); Di tích kiến trúc nghệ thuật tháp Pô Đam (xã Phú Lạc, huyện Tuy Phong).

([40]) Đến năm 2022, toàn tỉnh có 297.831/320.337 hộ đạt gia đình văn hóa, tỷ lệ 93% so với tổng số hộ toàn tỉnh.

([41]) Đến năm 2022, toàn tỉnh đã có 691/691 Thôn-KPVH phát động xây dựng và đã công nhận 672 thôn, khu phố văn hóa.

 

Ban Tuyên giáo - Nữ công LĐLĐ tỉnh

Bài viết cùng chuyên mục

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỔNG HỢP
LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG TỈNH BÌNH THUẬN

Địa chỉ:  417 Trần Hưng Đạo, P. Bình Hưng, Tp. Phan Thiết, Bình Thuận

Điện thoại: (0252) 3 822398

Website: www.congdoanbinhthuan.org.vn

Email: liendoanldbt2011@gmail.com

Giấy phép số: 03/GP-TTĐT do Sở Thông tin & Truyền thông cấp ngày 11/10/2016.

Thiết kế bởi Tính Thành.

Top